Vụ án: “Tranh chấp tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”giữa nguyên đơn Ngân hàng TMCP SG TT và bị đơn: Tống Đức D và bà Bùi Thị C.
Vào ngày 16/7/2012, Ngân hàng TMCP PN đã ký hợp đồng cung cấp hạn mức tín dụng số 02930712 HM với bà Bùi Thị C và ông Tống Đức D, vay số tiền 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng), thời hạn vay là 3 năm (từ ngày 16/7/2012 đến ngày 16/7/2015), hợp đồng thế chấp số 0293/HĐTC/KT12), ngày 16/7/2012 gồm các tài sản: gồm 03 thửa đất và toàn bộ tài sản trên đất được UBND huyện ĐL cấp giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên hộ ông Bùi Đức D và bà Bùi Thị C (Thửa đất số 296, diện tích 596m2; Thửa đất số 604, diện tích 552 m2; Thửa đất số 135A, diện tích 450 m2). Hợp đồng thế chấp cũng đã được công chứng và đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật.
Do bà C và ông D không thực hiện đúng thỏa thuận của hợp đồng về thời hạn trả nợ lãi và gốc nên Ngân hàng TMCP PN đã khởi kiện ra Tòa án. Tòa án nhân dân huyện ĐL đã giải quyết vụ án bằng Quyết định số 30/2014/QĐST- DS, ngày 16/4/2014, trong quyết định có ghi nội dung về việc trả nợ như sau: “Ông Tống Đức D và bà Bùi Thị C đồng ý trả cho Ngân hàng TMCP Phương Nam - Chi nhánh Bình Thuận số tiền là 2.429.748.994 đồng. Trong đó, tiền nợ vay là 1.992.300.000 đồng và tiền lãi là 437.448.994 đồng (bao gồm cả lãi trong hạn và lãi quá hạn, lãi tính từ ngày 01/5/2013 đến ngày 08/4/2014). Ông D và bà C còn phải tiếp tục chịu lãi suất nợ quá hạn là 2%/tháng, kể từ ngày 09/4/2014 cho đến khi trả xong tiền nợ gốc”. Ngoài ra, Ngân hàng TMCP PN - Chi nhánh Bình Thuận có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐL phát mãi các tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Ngày 04/5/2016 Chi cục thi hành án đã ban hành Quyết định số 797/QĐ-CCTHADS về việc thi hành án theo đơn yêu cầu, đến ngày 10/8/2017, ban hành thông báo số 123/TB-THADS về việc cưỡng chế thi hành án, Quyết định số 30/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Tuy nhiên, trong quá trình cưỡng chế thi hành án thì bà Bùi Thị C và ông Tống Đức D đã cho rằng các tài sản mà cơ quan thi hành án đã tiến hành cưỡng chế theo đơn yêu cầu của Ngân hàng TMCP PN là tài sản của hộ gia đình ông, bà chứ không phải là tài sản riêng của vợ chồng. Vì vậy việc cưỡng chế thi hành án chưa được thực hiện.
Đến nay Ngân hàng TMCP PN (đã sáp nhập vào ngân hàng TMCP SG TT và lấy tên là Ngân hàng TMCP SG TT- Chi nhánh Bình Thuận) đã làm đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án nhân dân huyện ĐL xác định phần tài sản mà ông Tống Đức D và bà Bùi Thị C được quyền sở hữu, sử dụng trong 03 thửa đất nói trên và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất để cơ quan thi hành án tiến hành cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật.
Bản án DSST số 30/2021/DS-ST ngày 23/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện ĐL tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP SG TT:
Xác định thửa đất số 135A, diện tích 450m2 được UBND huyện ĐL cấp GCNQSDĐ ngày 10/11/2004 đứng tên hộ bà Bùi Thị C, trị giá là: 1.103.300.000 đồng, là tài sản thuộc quyền sử dụng của bà Bùi Thị C bà ông Tống Đức D.
Thửa đất số 296, diện tích 596m2 (bao gồm 300m2 đất ở và 296m2 đất cây lâu năm), được UBND huyện ĐL cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/1998 đứng tên hộ ông Tống Đức D, cấp đổi thành GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất ngày 14/7/2010 và thửa đất số 604, diện tích 552m2 (trong đó có 300m2 đất ờ và 296 m2 đất cây lâu năm), cấp đổi thành GCNQSDĐ, quyền sở hũu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, do UBND huyện ĐL cấp ngày 14/7/2010, là tài sản cấp cho hộ ông Tống Đức D, gồm ông Tống Đức D, bà Bùi Thị C, Tống Đình L, Đặng Thị Nh, Tống Thị Thúy L, Tống Đức T và Tống Phương T, mỗi nguời đuợc quyền sở hữu, sử dụng 1/7 trong tổng giá trị của hai thửa đất này. Phần giá trị mà ông D và bà C được quyền sở hữu, sử dụng có giá trị là 932.057.000 đồng.
Đối với tài sản gắn liền trên hai thửa đất số 296 và thửa đất số 604, đã được định giá theo biên bản định giá tài sản ngày 09/10/2020, có tổng giá trị: 228.361.000 đồng, là tài sản chung của ông Tống Đức D và bà Bùi Thị C.
Tổng giá trị quyền về tài sản mà ông D và bà C được sở hữu, sử dụng trong khối tài sản nói trên, trị giá: 2.263.718.000 đồng.
Vấn đề được đặt ra trong vụ án này là:
Một là, Bản án có vi phạm trong việc giải quyết ngoài phạm vi khởi kiện của đương sự, vượt quá thẩm quyền của Tòa án.
Theo quy định tại Điều 5 Luật TTDS, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Cụ thể:
Bản án sơ thẩm xác định cụ thể phần tài sản của ông D bà C trong 3 thửa đất 135A, 296, 604 trị giá thành tiền là vượt quá yêu cầu của đương sự. Trong khi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tại đơn khởi kiện cũng như lời khai tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn chỉ yêu cầu Tòa án xác định phần tài sản của vợ chồng ông Tống Đức D và bà Bùi Thị C trong 3 thửa đất này. Nên việc bản án sơ thẩm tính ra giá trị bằng tiền là không cần thiết, không phù hợp, gây khó khăn cho việc thi hành án.
Hai là,ở phần tuyên xử, bản án sơ thẩm chưa xác định rõ nội dung “không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn”cụ thể là không chấp nhận đối với phần tài sản nào.
Ba là, vi phạm về tính án phí đối với nội dung không được Tòa án chấp nhận.
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có phần không được chấp nhận nhưng bản án sơ thẩm không buộc nguyên đơn chịu án phí DSST là vi phạm khoản 1, khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Do việc giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm có những vi phạm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm đã quyết định sửa bản án sơ thẩm số 30/2021/DS-ST ngày 23/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện ĐL về phần tuyên xử và phần án phí như phân tích trên.
Vũ Hồng_P9