1. Nội dung vụ án
Vào năm 1988, Hợp tác xã nông nghiệp TP giao cho ông Dương Văn H tu bổ, quản lý, sử dụng con đập có tục danh BL, ông có trách nhiệm bỏ kinh phí để đắp con đê với mục đích vừa làm đường đi, vừa ngăn mặn lên đồng lúa BĐ và BL. Đổi lại, ông được Hợp tác xã cho sử dụng, khai thác diện tích đất trong đập. Sau khi tiến hành khai hoang, đến năm 2005, ông làm dự án đắp hồ nuôi cá khoảng 05 sào, diện tích còn lại ông tiếp tục cấy lúa, kết hợp đặt cá, thủy sản theo con nước tự nhiên trong đó có các thửa 295, 296, 297 tờ bản đồ số 49. Cơn lũ năm 1999 đã cuốn trôi giấy tờ Hợp tác xã TP giao đất, giao đập BL cho ông sử dụng; những cán bộ Hợp tác xã, cán bộ xã TP giao đất cho gia đình ông trước đây cũng như các hộ có đất sản xuất lân cận ông đều biết, làm chứng và xác nhận việc sử dụng đất của hộ ông liên tục từ năm 1988 đến nay.
Thực hiện dự án khu dân cư, tái định cư đường dẫn vào cầu KP 1 và 2 giai đoạn 3, UBND thành phố TK tiến hành giải tỏa thu hồi các thửa đất số 295, 296, 297 tờ bản đồ số 49 của gia đình ông tại khu BL nhưng không kiểm kê, thu hồi đất và không bồi thường thiệt hại, hỗ trợ cho gia đình ông theo thực tế sử dụng. Ông tiến hành khiếu nại nhưng không được chấp nhận bồi thường.
Người khởi kiện ông H cho rằng gia đình ông đủ điều kiện để được thu hồi, bồi thưởng. Việc UBND thành phố TK giải quyết khiếu nại không thu hồi, bồi thường cho gia đình ông là không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình ông nên ông khởi kiện yêu cầu: Huỷ Công văn số 2144/UBND-PTQĐ ngày 30/9/2013 của UBND thành phố TK;
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 1409/QĐ-UBND ngày 16/3/2020 của Chủ tịch UBND thành phố TK về việc giải quyết khiếu nại của ông H;
- Buộc UBND thành phố TK ban hành quyết định thu hồi, bồi thường đối với các thửa số 295, 296, 297 tờ bản đồ số 49 tại khu vực đập BL tại khối phố PS, phường AP, thành phố TK cho hộ ông H.
2. Quá trình giải quyết vụ án
Bản án hành chính sơ thẩm số 54/2021/HC-ST ngày 04/8/2021 của TAND tỉnh QN quyết định chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn H.
Kháng cáo: Ngày 25/11/2021, người bị kiện UBND thành phố TK, Chủ tịch UBND thành phố TK kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Kháng nghị: Ngày 16/8/2021, Viện trưởng VKSND tỉnh QN có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 19/QĐ-VKS-HC kháng nghị Bản án hành chính sơ thẩm nêu trên, đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên: Chấp nhận kháng cáo của người bị kiện UBND thành phố TK, Chủ tịch UBND thành phố TK, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh QN, sửa án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Dương Văn H.
3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét, đánh giá hết các chứng cứ cần thiết phục vụ cho việc giải quyết vụ án là không khách quan, ảnh hưởng quyền lợi đương sự, cụ thể: Theo hồ sơ đăng ký đất đai qua các thời kỳ, diện tích các thửa đất 295, 296, 297 tờ bản đồ số 49 tại khu vực đập BL, khối phố PS, phường AP, thành phố TK mà ông H khiếu nại yêu cầu thu hồi, bồi thường thuộc loại đất hoang, úng thủy do UBND phường AP quản lý. Theo phiếu lấy ý kiến của khu dân cư ngày 09/7/2019 thì diện tích đất này ông H không sử dụng canh tác từ trước đến nay. Tại thời điểm kiểm tra hiện trạng đất ngày 22/5/2019 của cơ quan chuyên môn, xác định vị trí đất này bị bỏ hoang hóa, không canh tác, sử dụng, trên đất không có trồng cây cối gì. Phần diện tích mặt nước không sử dụng nuôi trồng thủy sản, chỉ đặt dụng cụ bắt cá tự nhiên. UBND phường AP cũng xác nhận qua các lần đăng ký địa chính các thửa đất số 295, 296, 297 tờ bản đồ số 49 do UBND phường quản lý. Ông H không kê khai, đăng ký và cũng không được cân đối theo Nghị định 64. Ông H yêu cầu thu hồi đất và được bồi thường nhưng ông không chứng minh được thời gian sử dụng đất liên tục. Việc ông H có khai thác diện tích đất hoang này là khai thác tự nhiên như bắt hải sản, trồng rau muống... nên ông H không đủ điều kiện để được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Điều 75 và khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013.
Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ lời khai của nhân chứng, không đánh giá sự mâu thuẫn giữa các lời khai vì các lời khai của nhân chứng mâu thuẫn, trước và sau không đồng nhất, cũng như căn cứ vào Biên bản xem xét thẩm định của Tòa án sơ thẩm được thực hiện sau thời điểm cơ quan chuyên môn giúp việc cho UBND thành phố TK tiến hành kiểm tra thực tế hiện trạng đất, để xác định ông H có sử dụng đất để ngăn mặn, giữa đập BL, có canh tác trồng cây trên đất. Tòa án sơ thẩm không xem xét nguồn gốc đất, quá trình đăng ký kê khai, thực tế hiện trạng sử dụng đất và đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H là không khách quan toàn diện, áp dụng không đúng pháp luật Điều 75 và khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích Nhà nước.
Vì vậy, tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, chấp nhận kháng cáo của người bị kiện, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh QN, sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 54/2021/HC-ST ngày 04/8/2021 của TAND tỉnh QN theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Dương Văn H như đã phân tích nêu trên.
Trong vụ án này, VKSND tỉnh QN đã phát hiện vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng quy định pháp luật nên đã kịp thời ban hành kháng nghị phúc thẩm, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước không bị xâm hại, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất nên cần phát huy trong thời gian tới.