1. Nội dung và quá trình giải quyết vụ án
Hà Trung K có tình cảm yêu đương với Đinh Thị Như Q (Sinh ngày 10/8/1999, trú cùng tổ dân phố với K); từ khoảng tháng 10/2014, Hà Trung K đã nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu với Q dẫn đến Q có thai. Đến ngày 01/9/2015, Q sinh con trai đặt tên là Đinh Thiên V. Tháng 8/2017 gia đình K và gia đình Q thống nhất mỗi tháng K có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/1 tháng cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, gia đình K chỉ thực hiện cam kết được 8 lần và sau đó không thực hiện cam kết nữa. Vào tháng 02/2019, Hà Trung K làm thủ tục đăng ký kết hôn với chị Hoàng Thị H (Sinh năm 1996, trú tại xã GH, huyện PN, tỉnh BK), cắt đứt quan hệ với Q.
Tại bản kết luận giám định pháp y số 4188/C09-TT3 ngày 16/9/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Hà Trung K là cha đẻ của Đinh Thiên V.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2019/HSST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh YB áp dụng điểm a, d khoản 2, Điều 115; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo Hà Trung K 03 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em”.
Ngày 21/11/2019, Hà Trung K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 11/2020/HS-PT ngày 04/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh YB áp dụng điểm a, d khoản 2, Điều 115; điểm b, o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999; Điều 65 BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Hà Trung K 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Giao cấu với trẻ em". Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Ngày 08/4/2020, Viện trưởng VKSND tỉnh YB đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/QĐ-VC1-HS ngày 25/5/2020, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Hà Nội đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm: Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 11/2020/HS-PT ngày 04/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh YB và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2019/HSST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh YB.
Tại Quyết định số 43/2020/HS-GĐT ngày 28/9/2020, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội quyết định: Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 11/2020/HS-PT ngày 04/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh YB đối với Hà Trung K; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2019/HSST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh YB.
2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo Hà Trung K, phù hợp với lời khai của người bị hại, những người làm chứng, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Toà án các cấp đã xét xử Hà Trung K phạm tội “Giao cấu với trẻ em" theo điểm a, d khoản 2 Điều 115 BLHS năm 1999 là có căn cứ pháp luật.
Trong vụ án này, sau khi Hà Trung K nhiều lần giao cấu làm chị Đinh Thị Như Q có thai và sinh con, Hà Trung K đã đăng ký kết hôn với người phụ nữ khác, trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con như đã cam kết trước đó. Điều này thể hiện bị cáo không có thái độ ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của bản thân. Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2019/HSST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh YB áp dụng điểm a, d khoản 2, Điều 115; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999, xử phạt bị cáo Hà Trung K 03 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em" là phù hợp, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, do có kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo. Bản án phúc thẩm số 11/2020/HS-PT ngày 04/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh YB đã sửa án sơ thẩm cho bị cáo Hà Trung K được hưởng án treo là trái quy định của pháp luật và hướng dẫn những trường hợp không cho hưởng án treo, cụ thể: Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Tự thú” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 là không chính xác, trái với quy định của pháp luật và hướng dẫn tại Công văn số 81 ngày 10/6/2002 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ vì Hà Trung K khai báo hành vi phạm tội sau khi sự việc bị bên bị hại tố giác. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “Phạm tội nhiều lần” và “Làm nạn nhân có thai" là những tình tiết tăng nặng định khung quy định tại khoản 2 Điều 115 BLHS năm 1999. Theo hướng dẫn tại khoản 5 Điều 3 Nghị quyết số 02 ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn những trường hợp không cho hưởng án treo đó là: “Người phạm tội nhiều lần, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi". Như vậy, việc Tòa án nhân dân tỉnh YB đã sửa án sơ thẩm cho bị cáo Hà Trung K được hưởng án treo là trái quy định của pháp luật, không có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.